Chi tiết bài viết

Chẩn đoán và điều trị bệnh Polyp túi mật

Polyp túi mật là hậu quả của quá trình tăng sinh quá mức các tế bào trong niêm mạc thành túi mật. Tỷ lệ polyp túi mật trong cộng đồng dao động từ 0,03% đến 9%. Các số liệu điều tra tại khu vực đông Á cho thấy tỷ lệ polyp túi mật ở người trưởng thành trong khoảng 4% đến 7%, ở Mỹ tỷ lệ này dao động khoảng 4,3 – 6,9%

Polyp túi mật là hậu quả của quá trình tăng sinh quá mức các tế bào trong niêm mạc thành túi mật. Tỷ lệ polyp túi mật trong cộng đồng dao động từ 0,03% đến 9%. Các số liệu điều tra tại khu vực đông Á cho thấy tỷ lệ polyp túi mật ở người trưởng thành trong khoảng 4% đến 7%, ở Mỹ tỷ lệ này dao động khoảng 4,3 – 6,9%. Bệnh lý này chủ yếu gặp ở người trưởng thành, rất hiếm gặp ở trẻ em, tỷ lệ gặp ở nam/nữ khoảng 1,15/1. Mặc dù Polyp không phải là ung thư túi mật mà là một dạng tổn thương giả u, tuy nhiên một tỷ lệ nhỏ polyp túi mật có khả năng tiến triển thành ung thư. Ung thư túi mật tuy hiếm gặp, nhưng khi đã có triệu chứng thường là ở giai đoạn muộn, tiên lượng bệnh xấu. Do vậy, trước 1 trường hợp có polyp túi mật vấn đề đặt ra là khi nào cần tiến hành phẫu thuật, khi nào có thể theo dõi và theo dõi trong thời gian bao lâu.

 

Polyp túi mật

            Các triệu chứng ban đầu thường không đặc hiệu, mơ hồ thậm chí trong nhiều trường hợp không có triệu chứng, do đó hầu hết các trường hợp polyp túi mật được phát hiện tình cờ. Một số bệnh nhân có buồn nôn, nôn mửa và thỉnh thoảng có đau vùng hạ sườn phải nguyên nhân do các mảnh nhỏ cholesterol tách khỏi thành túi mật di chuyển qua ống cổ. 

            Việc phát hiện polyp túi mật giai đoạn sớm khi không có triệu chứng chủ yếu nhờ các phương pháp chẩn đoán hình ảnh. Siêu âm bụng tổng quát là phương án hữu hiệu và thường được sử dụng nhất không chỉ vì dễ tiếp cận, giá thành rẻ mà phương pháp này cũng có độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao trong chẩn đoán polyp túi mật. Bác sỹ siêu âm có thể mô tả vị trí, đếm số lượng và đo kích thước của polyp. Siêu âm cũng có thể phân biệt polyp thể cholesterol với các thể khác. Tuy nhiên qua hình ảnh siêu âm khó có thể phân biệt được polyp là lành tính hay ác tính. Hình ảnh 1 polyp đơn độc, không di động, kích thước lớn có thể là dấu hiệu gợi ý của tổn thương ác tính. Siêu âm thường chỉ phát hiện rõ khi polyp đường kính từ 5 mm trở lên, các trường hợp sỏi dính chặt trên thành túi mật cũng có thể gây nhầm lẫn chẩn đoán. Trong các trường hợp polyp đường kính nhỏ hoặc nghi ngờ ác tính, có thể chụp CT scanner, Cộng hưởng từ hoặc Siêu âm nội soi để chẩn đoán xác định.

            Trên thực tế việc phân loại polyp túi mật không được thống nhất cho đến khi Christensen và Ishak giới thiệu bảng phân loại vào những năm 1970. Sau đó Armed Forces Institute of Pathology đưa ra bảng phân loại chi tiết hơn kèm theo mô tả các đặc điểm giải phẫu bệnh cũng như chẩn đoán hình ảnh của từng nhóm. Cho đến nay đây vẫn là bảng phân loại chi tiết nhất cho bệnh lý polyp túi mật. Theo bảng phân loại này, có 4 loại polyp túi mật chính:

 

1. Polyps thể cholesterol: Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng hầu hết các polyps túi mật là lành tính, và 60 – 90% là polyps thể cholesterol. Polyps thể này thường có đường kính dưới 10 mm và thông thường là đa polyps. Việc hình thành polyps liên quan tới sự lắng đọng cholesterol trên thành túi mật. Mặc dù đã có 3 trường hợp ung thư có liên quan tới sự lắng đọng cholesterol đã được báo cáo, tuy nhiên polyps thể này vẫn được xem là lành tính. Siêu âm rất dễ phát hiện thể Polyp này, với dấu hiệu “Quả bóng gắn trên tường – Ball on the wall”, nghĩa là hình ảnh tăng sáng, tròn mịn. Cũng có khi nhìn thấy tinh thể Cholesterol lóe sáng như ngôi sao trên bầu trời.

2. Polyps thể viêm: thể này không phổ biến, gặp khoảng 10%, bản chất là dạng mô sơ sẹo gây nên do các tổn thương viêm mạn tính trên thành túi mật. Polyps thể này đường kính thường nhỏ hơn 10 mm, chân rộng và không gây ung thư nên người bệnh hoàn toàn yên tâm.

3. Polyps thể u tuyến: mặc dù là polyps lành tính nhưng đây được coi như 1 dạng tổn thương tiền ung thư. Polypd này có kích thước từ 5 – 20 mm, thường đứng đơn độc và có thể có liên quan với bệnh lý sỏi túi mật hoặc tình trạng viêm túi mật mạn tính. Đây là dạng u biểu mô lành tính hiếm gặp, thường được phát hiện tình cờ qua chẩn đoán hình ảnh hoặc sau khi cắt túi mật. Dạng này có thể có cuống hoặc không cuống và hầu hết xuất hiện cùng trong các trường hợp bệnh nhân có sỏi túi mật. 

4. Polyps thể phì đại cơ tuyến: tổn thương gặp ở người trưởng thành, tỷ lệ tăng dần theo tuổi. Ban đầu polyps thể này được mô tả là lành tính tuy nhiên hiện tại nó được xếp loại là tổn thương tiền ung thư, do có 1 số trường hợp tiến triển thành ung thư đã được báo cáo. Polyp này thường xuất hiện đơn độc và nằm ở đáy túi mật.

Đặc điểm nhận biết polyps có nguy cơ ung thư hóa

– Tuổi: nguy cơ ác tính cao hơn ở những bệnh nhân polyp túi mật trên 50 tuổi

– Kích thước Polyp rất quan trọng: 

+ d ≤ 10mm thường là lành tính nên sống hòa bình. Với những polyp này chỉ cần theo dõi hàng năm bằng siêu âm ổ bụng nhàm đánh giá xem polyp cs lơn hơn không để có hướng xử trí kịp thời. Tuy nhiên 1 số nghiên cứu mới cho rằng nếu chỉ xét riêng đường kính polyp thì không đánh giá được chính xác nguy cơ ác tính, do vậy các nghiên cứu này đưa ra khuyến cáo nên phẫu thuật khi đường kính polyp trên 6 mm.

+ 11 ≤ d ≤ 17mm lành tính nhưng có thể chuyển thành ác tính nên xét mổ.

+ d ≥ 18mm nguy cơ ác tính cao nên chỉ định mổ tuyệt đối.

– Hình dạng polyps: các polyps không có cuống có nguy cơ ác tính cao hơn polyps có cuống.

– Số lượng: Các polyps ác tính thường có xu hướng xuất hiện đơn lẻ, trong khi các các polyps thể cholesterol lành tính thường là đa polyps. Tuy nhiên chưa có bằng chứng cụ thể chứng minh polyp túi mật đơn độc có nguy cơ ác tính cao hơn đa polyps.

– Sự xuất hiện kèm theo của sỏi túi mật cũng được xem như 1 dấu hiệu gây tăng nguy cơ ung thư hóa polyps túi mật. Tuy nhiên cần lưu ý việc chẩn đoán qua siêu âm vì sỏi túi mật có thể gây khó khăn trong việc xác định các polyp nhỏ.

– Viêm túi mật mạn tính là mốt trong các nguy cơ gây ác tính với các polyps túi mật. Do đó nếu có viêm túi mật mạn thì polyps túi mật dù với kích thước hoặc hình thể nào cũng nên phẫu thuật cắt túi mật sớm.

KẾT LUẬN:

– Các triệu chứng ban đầu của Polyps túi mật thường không đặc hiệu, mơ hồ thậm chí trong nhiều trường hợp không có triệu chứng, do đó hầu hết các trường hợp polyp túi mật được phát hiện tình cờ.

– Phẫu thuật cắt túi mật chỉ thực hiện trong các trường hợp: polyps có triệu chứng, polyps đường kính ≥ 10 mm, polyps tăng nhanh về kích thước, các polyps không có cuống hoặc polyp cuống dài, bệnh nhân trên 50 tuổi, polyps có kèm theo sỏi túi mật, polyp trong các trường hợp bệnh nhân có viêm túi mật. Trường hợp bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ, polyps đường kính ≥ 6 mm nên chỉ định phẫu thuật.

– Các trường hợp không phẫu thuật cần khám định kỳ theo dõi bằng siêu âm 6 – 12 tháng 1 lần để phát hiện sớm, xử trí kịp thời các trường hợp có nguy cơ tiến trển thành ung thư.

Nguồn: Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh