Chi tiết bài viết

Một số bệnh lý trẻ thường gặp phải trong mùa hè

Một mùa hè sôi động lại đến và nỗi lo trẻ bị bệnh mỗi khi hè về lại được các bậc phụ huynh hết sức quan tâm. Với đặc điểm nóng ẩm của mùa hè thì đây là thời điểm thuận lợi của nhiều bệnh mà trẻ dễ mắc phải, trong đó đáng lưu ý nhất là các bệnh do vi nhiễm virut, vi khuẩn, ký sinh trùng. Ở trẻ em, do sức đề kháng kém, hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, nên vào mùa nắng nóng có nguy cơ cao mắc một số bệnh nguy hiểm. Trong bài viết này chúng tôi xin chia sẻ với quý phụ huynh một vài bệnh lý mà trẻ thường gặp phải khi hè về. Hy vọng, những chia sẻ của chúng tôi sẽ giúp bạn có đủ kiến thức để chủ động phát hiện và có cách phòng tránh kịp thời cho trẻ.

1.  Bệnh về đường hô hấp trên

– Viêm đường hô hấp trên không phải là một bệnh mà là một tổ hợp bệnh bao gồm: cảm lạnh, viêm mũi họng, viêm xoang, viêm thanh quản. Mặc dù có nhiều bệnh đơn lẻ khác nhau nhưng chúng đều có một số biểu hiện chung rất dễ nhận thấy. Những triệu chứng chủ yếu bao gồm: sốt cao, hắt hơi, sổ mũi, chảy mũi, ngạt mũi, tắc mũi, đau rát họng, ho, khàn tiếng, lạc tiếng, có khi mất tiếng, mệt mỏi.

Viêm đường hô hấp trên có thời gian ủ bệnh ngắn, tốc độ biểu hiện bệnh nhanh và các biểu hiện mang tính ồ ạt. Chính vì thế triệu chứng của bệnh lý này thường là sốt cao và thành cơn.

Bệnh lý này thường xảy ra khi có một số yếu tố thuận lợi tác động vào như thay đổi thời tiết, uống nước quá lạnh, ăn kem, nằm, ngồi trước luồng gió lạnh của quạt hoặc điều hòa nhiệt độ. Vì vậy, các bậc phụ huynh nên hạn chế cho trẻ uống nước đá và nằm máy lạnh đề phòng cho trẻ không gặp phải bệnh lý trên.

2. Bệnh tay – chân – miệng

Bệnh tay chân miệng là một loại bệnh thường gặp ở trẻ đặc biệt khi hè về. Bệnh chủ yếu lây theo đường tiêu hoá, từ người sang người. Do đó các yếu tố sinh hoạt tập thể như ở trường học khiến nguy cơ lây bệnh tăng cao, đặc biệt là trong các đợt bùng phát bệnh.

Biểu hiện ban đầu của bệnh lý này là trẻ có triệu chứng sốt nhẹ, đau họng, đau miệng, chảy nước miếng và biếng ăn hơn. Ở trẻ nhỏ từ 1 đến 2 tuổi thì thường đau khóc, bỏ bú. Khi đó, trong miệng trẻ đã có thể có những vết loét đỏ như vết lở miệng, xuất hiện nhiều ở vòm miệng, môi trong, lợi, lưỡi… Quan sát tiếp có thể thấy những vết phát ban dạng phỏng nước, hoặc vết nổi cộm trên da ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông trẻ.

Bệnh Tay, chân, miệng có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Vì vậy, nếu trẻ có các biểu hiện như sốt cao hơn 39 độ C, khó ngủ, quấy khóc hoặc ngủ li bì thì cần đưa trẻ ngay đến các cơ sở y tế để được bác sĩ kiểm tra.

3. Bệnh thủy đậu

Bệnh thủy đậu là một dạng bệnh nhiễm trùng da, do siêu vi Varicella zoster gây ra đặc biệt là vào mùa hè. Biểu hiện chính của bệnh là các tổn thương dạng bóng nước trên da và niêm mạc. Sau khi siêu vi xâm nhập cơ thể, phải qua thời gian khoảng 10-20 ngày (gọi là thời kỳ ủ bệnh) người bệnh mới xuất hiện các triệu chứng của một người nhiễm siêu vi (sốt, đau đầu, uể oải, chán ăn…). Lúc này, trên da người bệnh có thể xuất hiện những hồng ban có đường kính vài milimet và sau 1-2 ngày mới xuất hiện nốt đậu. Đa số nốt đậu có đường kính dưới 5mm, tuy nhiên cũng có nốt đậu có đường kính tới 10mm. Nốt đậu nổi nhiều là dấu hiệu cảnh báo bệnh có thể diễn biến nặng.

Mụn bóng nước lúc đầu chứa một chất dịch trong, khoảng 1 ngày sau trở nên đục như mủ rồi 2-3 ngày kế tiếp thì vỡ ra, các mụn sẽ đóng vẩy.

Một vài vấn đề cần lưu ý về bệnh thủy đậu như sau:

Bệnh thủy đậu lây truyền rất nhanh. Bệnh còn có thể lây truyền gián tiếp qua tiếp xúc với quần áo hoặc các vật dụng khác đã nhiễm dịch tiết từ các vết mụn phồng rộp của người bệnh. Vì vậy, người bệnh cần kiêng đến chỗ đông người để tránh lây lan bệnh cho người khác.

Nằm trong phòng riêng, thoáng khí, có ánh sáng mặt trời, thời gian cách ly là khoảng 7-10 ngày từ lúc bắt đầu phát hiện bệnh (phát ban) cho đến khi các nốt phỏng nước khô vảy hoàn toàn.

Hạn chế việc gãi, cào nốt mọc thủy đậu, gây trầy xước, nhiễm trùng. Thực hiện vệ sinh cá nhân thật tốt. Vẫn có thể tắm bằng nước ấm hàng ngày, thực hiện việc lau rửa nhẹ nhàng, tránh mụn nước bị vỡ gây rát, dễ nhiễm khuẩn và để lại sẹo sau này.

– Người bệnh cũng nên kiêng đồ nếp và đồ tanh vì chúng có thể làm cho nốt mụn thủy đậu sưng tấy hơn.

4. Sốt virus

Sốt virus hay còn được gọi là sốt siêu vi thường do nhiều loại virus gây ra, phổ biến nhất là virus đường hô hấp. Triệu chứng của bệnh là trẻ thường sốt cao, đau mỏi người, có thể có triệu chứng của viêm đường hô hấp trên như: hắt hơi, sổ mũi, ho (thường có ít đờm trắng trong không có màu vàng, xanh). Trẻ có thể phát ban hay gặp nhất là do virut Rubella sởi gây ra. Biểu hiện chủ yếu là các ban đỏ mịn, thường xuất hiện vào ngày thứ 2-4 của bệnh, ban thường tuần tự từ đầu mặt xuống thân mình, chân và khi mất đi cũng theo tuần tự như vậy. Ngoài ra trẻ thường có nổi hạch ở cổ, gáy, các hạch này có thể đau và tồn tại lâu mới mất đi. Tuy nhiên, cần lưu ý vì một số trường hợp có biến chứng, nên cần theo dõi để phát hiện các triệu chứng của viêm não như đau đầu, nôn nhiều, rối loạn ý thức, co giật.

Để phòng tránh sốt virus, cần tăng cường sức đề kháng bằng cách cho trẻ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, trong đó, lưu ý, bổ sung các vitamin từ hoa quả, ngoài ra cần chú ý vệ sinh cá nhân cho trẻ, đồng thời giữ môi trường xung quanh và nơi ở luôn sạch sẽ.

5. Tiêu chảy

Tiêu chảy là một bệnh lý khá phổ biến, đặc biệt bệnh tiêu chảy cấp rất nguy hiểm nếu không được chẩn đoán và xử lý kịp thời có thể gây nên các biến chứng trầm trọng.

Bệnh tiêu chảy là đi ngoài phân lỏng, có nhiều nước hơn bình thường hoặc phân toàn nước, đi ngoài 3 lần trở lên trong 24 giờ. Nguyên nhân gây tiêu chảy có thể là vi sinh vật gây bệnh như vi khuẩn (lỵ, thương hàn, tả…) hoặc virut, nấm, ký sinh trùng đường ruột. Cơ chế gây bệnh có thể do độc tố của vi khuẩn gây ra, triệu chứng thường xuất hiện sớm, hoặc do vi khuẩn trực tiếp gây tổn thương hệ thống tiêu hóa, triệu chứng rối loạn tiêu hóa thường xuất hiện muộn hơn. Tiêu chảy cấp có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng 80% xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi.

Khi trẻ bị tiêu chảy cấp, việc quan trọng nhất là đánh giá mức độ mất nước để bù nước cho trẻ, chỉ thực hiện truyền dịch khi trẻ bị mất nước nặng, trẻ nôn nhiều, không thể uống được hoặc đi ngoài rất nhiều không thể bù kịp bằng đường uống. Việc sử dụng kháng sinh và các men tiêu hóa vi sinh cần phải theo chỉ định của bác sĩ, tuyệt đối không được tự ý dùng thuốc trị tiêu chảy.

Bạn có thể liên hệ với Bloomaxx qua website www.bloomaxx.com hoặc gọi đến số hotline 0902.922.802 để đặt câu hỏi trực tiếp với Bác sĩ. Đội ngũ Bác sĩ của chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc về các bệnh lý mà bạn đang quan tâm.