Chi tiết bài viết

Phình động mạch chủ, căn bệnh nguy hiểm có thể điều trị được

Bệnh nhân A bị phình động mạch chủ bụng được phẫu thuật thành công thay đoạn phình bằng mạch máu ghép nhân tạo; Bệnh nhân B bị phình động mạch chủ ngực được điều trị thành công với kỹ thuật nội soi đặt stent graft nội mạch; Bệnh nhân C bị phình đoạn quai động mạch chủ ngực được điều trị bằng kỹ thuật Hybrit (Kết hợp phẫu thuật với can thiệp nội mạch)… Gần đây trên các phương tiện truyền thông, chúng ta có thể thấy nhiều bài với nội dung như trên. Vậy thì phình động mạch chủ là căn bệnh như thế nào mà được nhiều người quan tâm như vậy? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin để quý bạn đọc có thể biết rõ hơn về căn bệnh này.

1. Phình động mạch chủ là gì?

Động mạch chủ là mạch máu lớn nhất của cơ thể, xuất phát từ tim và chia các nhánh đem máu đi nuôi các bộ phận của cơ thể. Từ tim đi ra, một đoạn của động mạch chủ ở trên ngực gọi là động mạch chủ ngực. Đoạn tiếp theo của động mạch chủ đi xuống bụng gọi là động mạch chủ bụng. Phình động mạch chủ xảy ra khi thành một đoạn của động mạch này bị suy yếu dẫn đến giãn lớn hơn 50% đường kính bình thường. Đoạn nào của động mạch chủ cũng có thể bị phình. Tuy nhiên, tần suất gặp ở động mạch chủ bụng là nhiều nhất (~70%).

2. Nguyên nhân của phình động mạch chủ?

Nguyên nhân chưa được xác định rõ ràng. Các thầy thuốc nhận thấy các yếu tố nguy cơ mắc bệnh sau:

– Thường xảy ra ở bệnh nhân > 65 tuổi.

– Nam giới gặp nhiều hơn so với nữ giới 3-4 lần.

– Hút thuốc lá có nguy cơ cao bị phình động mạch chủ.

– Tăng huyết áp làm tăng áp lực lên thành động mạch chủ, tăng nguy cơ tạo ra khối phình ở đoạn có thành mạch bị yếu.

– Rối loạn mỡ máu tạo nên các mảng xơ vữa, làm suy yếu thành mạch.

– Gia đình có người bị phình động mạch chủ cũng là yếu tố dễ mắc bệnh này.

– Một số yếu tố khác như hội chứng Marfan, hội chứng Ehler-Danlos, chấn thương…

Các biểu hiện của phình động mạch chủ?

Phình động mạch chủ thường phát triển chậm và không có triệu chứng nên khó phát hiện sớm. Phần lớn các trường hợp được phát hiện tình cờ qua khám tổng quát hoặc đi khám vì một bệnh khác. Các xét nghiệm để chẩn đoán là Xquang tim phổi, siêu âm tim, siêu âm bụng, CT Scan.

Khi khối phình đủ lớn, có thể có các dấu hiệu sau:

Phình động mạch chủ ngực:

– Nặng ngực, đau ngực hoặc đau lưng.

– Khàn tiếng kéo dài.

– Khó nuốt.

– Khó thở.

– Ho ra máu.

Phình động mạch chủ bụng:

– Đau tức bụng âm ỉ.

– Có thể sờ thấy khối ở bụng đập theo nhịp tim.

3. Phình động mạch chủ nguy hiểm như thế nào?

Vỡ khối phình là biến chứng rất nặng và nguy hiểm nhất. Khối phình vỡ có thể gây tử vong do tình trạng mất máu cấp. Những nguyên nhân có thể làm vỡ khối phình là chấn thương, huyết áp cao không kiểm soát. Khối phình có kích thước lớn có xu hướng bị vỡ nhiều hơn. Các biểu hiện gợi ý vỡ khối phình bao gồm:

– Đau ngực dữ dội xuất hiện đột ngột, lan ra sau lưng đối với phình động mạch chủ ngực. Đau bụng nếu vỡ phình động mạch chủ bụng.

– Khó thở nhiều.

– Da xanh nhợt.

– Ngất.

– Tụt huyết áp.

Khi có những biểu hiện như trên cần đưa bệnh nhân đến cấp cứu tại cơ sở y tế gần nhất.

4. Điều trị ngăn ngừa khối phình bị vỡ

Tùy thuộc vào kích thước, hình dạng và tốc độ phát triển của khối phình mà bác sĩ quyết định thái độ và phương pháp điều trị là theo dõi và uống thuốc hay phải phẫu thuật cấp cứu.

Nếu khối phình động mạch chủ có kích thước nhỏ, bác sĩ sẽ đề nghị tiếp tục theo dõi và uống thuốc cũng như điều chỉnh lối sống để điều trị các yếu tố nguy cơ gây bệnh. Bệnh nhân sẽ được kiểm tra định kỳ kích thước khối phình mỗi 6 tháng để đánh giá sự lớn lên của khối phình và nguy cơ vỡ bằng siêu âm hoặc chụp CT scan.

Khi khối phình lớn > 5,5 cm trên phim chụp CT scan, bệnh nhân sẽ được chỉ định điều trị phẫu thuật để ngăn ngừa nguy cơ vỡ khối phình. Có 2 phương pháp phẫu thuật chính sau:

– Phẫu thuật mở: Bệnh nhân được mổ hở để thay đoạn động mạch chủ bị phình bằng mạch máu nhân tạo. Đối với phình động mạch chủ ngực, phẫu thuật cần sự hỗ trợ của máy tim phổi nhân tạo. Đây là phẫu thuật lớn, tác động tới toàn bộ các cơ quan trong cơ thể nên thời gian hồi phục sau mổ thường kéo dài.

– Đặt giá đỡ (stent graft) động mạch chủ: Kỹ thuật đặt stent graft là phẫu thuật mới, ít xâm lấn. Đường mổ nhỏ ở đùi, không cần mổ ngực hay bụng. Người bệnh có thể chỉ cần được gây tê tại chỗ, tỉnh táo hoàn toàn trong khi mổ. Từ đường mổ ở đùi, bác sĩ sẽ đưa dụng cụ vào lòng mạch máu lên đến vị trí khối phình. Stent graft sẽ được bung ra để máu không còn lưu thông vào khối phình nữa, từ đó loại bỏ nguy cơ vỡ. Phẫu thuật ít ảnh hưởng tới các cơ quan trong cơ thể, ít đau, ít biến chứng và thời gian hồi phục ngắn hơn.

Nói chung, cả 2 phương pháp trên đều mang lại kết quả tốt. Quyết định lựa chọn phương pháp nào được các bác sĩ cân nhắc và có tham khảo ý kiến của người bệnh cùng người thân.

Nguồn: Bệnh viện đa khoa Đồng Nai