Chi tiết bài viết

Phòng ngừa và xử trí dị ứng thực phẩm ở trẻ em

Dị ứng thực phẩm có tỷ lệ cao ở trẻ nhỏ, đặc biệt là ở trẻ dưới 3 tuổi, vì hệ miễn dịch và đường ruột của trẻ còn non yếu, tính thấm của niêm mạc đường tiêu hóa cao, nếu tiếp xúc với những thực phẩm có tính dị nguyên cao thì rất dễ phát triển thành dị ứng.

1. Dị ứng thực phẩm là gì?

1.1.Khái niệm

Dị ứng thực phẩm là một phản ứng không bình thường với thức ăn, gây ra bởi hệ miễn dịch của cơ thể. Trẻ em có hệ miễn dịch và đường ruột còn non yếu, tính thấm của niêm mạc đường tiêu hóa cao, nếu tiếp xúc với những thức ăn có tính dị nguyên cao thì dễ phát triển thành dị ứng. Thông thường, dị ứng thức ăn gây nên các biểu hiện ở da như ban đỏ, viêm da, nổi mề đai, chàm, đau bụng và rối loạn tiêu hóa. Một số trường hợp nặng, dị ứng thức ăn có thể gây kịch phát cơn hen phế quản hoặc gây sốc phản vệ, nguy cơ dẫn tới tử vong rất cao.

Trẻ em dưới 1 tuổi đến khi trẻ bắt đầu ăn dặm thường là những đối tượng dễ bị dị ứng nhất vì ở độ tuổi này hệ thống miễn dịch và hệ tiêu hóa của trẻ chưa hoàn thiện. Hiện nay tỷ lệ dị ứng thực phẩm ngày càng gia tăng trên thế giới đặc biệt ở trẻ nhỏ. Dựa vào tiền sử bệnh dị ứng của bố mẹ, có thể xác định được nguy cơ dị ứng của trẻ ngay khi còn nằm trong bụng mẹ. Ví dụ: Nếu cả hai bố mẹ cùng mắc các bệnh dị ứng thì có khoảng 50-80% con nguy cơ mắc phải.

Dị ứng thực phẩm có thể xảy ra sau vài phút hoặc vài giờ sau khi ăn. Một số trường hợp xuất hiện các triệu chứng muộn (vài ngày sau khi ăn thức ăn chứa dị nguyên) gồm viêm da, hen, viêm mũi dị ứng, viêm xoang, ho dai dẳng, chảy nước mũi, táo bón, ra mồ hôi, biếng ăn, giảm tập trung và ngủ kém. Mức độ nặng hay nhẹ của bệnh phụ thuộc vào thời gian xuất hiện phản ứng sau khi ăn, lượng thức ăn đã tiêu thụ và cơ địa của của trẻ.

1.2.Những thực phẩm nào dễ gây dị ứng?

Tôm, cá, sữa bò, trứng, lạc, đậu nành là những thực phẩm dễ gây ra dị ứng. Nếu như ở người lớn, thường gặp là dị ứng với tôm, cá thì với trẻ phần nhiều là dị ứng với sữa bò, trứng và đậu nành là những thực phẩm dễ gây dị ứng. Với những trẻ đang trong độ tuổi bú mẹ, nhiều bà mẹ do sợ thiếu sữa hoặc do đi làm xa nên pha thêm sữa bột cho bé bú dẫn đến trẻ bị dị ứng với thành phần của sữa. Các phản ứng dị ứng với các thực phẩm không chứa protein hoặc ít protein là hiếm khi xảy ra.

Dị ứng thức ăn là dị ứng với thực phẩm đưa vào đường tiêu hóa nhưng các biểu hiện chủ yếu lại ở trên da và những yếu tố gây nặng bệnh lại nằm ở đường hô hấp. Có đến 80% trẻ bị dị ứng có biểu hiện ở da, 20% có biểu hiện triệu chứng đường hô hấp (thở co kéo, khò khè…), 20% có biểu hiện ở hệ tiêu hoá, các triệu chứng khác chỉ chiếm khoảng vài phần trăm. Dị ứng thức ăn nếu không được xử lý tốt có thể dẫn đến những hệ lụy khó có thể khắc phục được.

2. Điều trị

Nguyên tắc điều trị dị ứng là phát hiện ra các dị nguyên nào là nguyên nhân gây dị ứng và tránh tiếp xúc với các dị nguyên đó. Nhiều khi phải thay đổi thói quen ăn uống và cẩn trọng hơn trong việc sử dụng thức ăn cho trẻ.

Loại bỏ thực phẩm gây dị ứng ra khỏi khẩu phần ăn.

Khi trẻ bắt đầu ăn dặm nên bắt đầu với các thức ăn lành tính, có tỷ lệ dị ứng thấp nhất cho trẻ, như gạo và các loại củ.

Tránh cho trẻ dùng các loại thức ăn chế biến theo lối công nghiệp như: đồ hộp, thịt lợn xông khói, thịt lợn muối, các chất nhuộm màu, gia vị nhân tạo.

Nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa dị ứng khi bạn nghi ngờ con mình bị dị ứng với một loại thức ăn nào đó. Các bác sĩ sẽ thăm khám, hỏi bệnh và có thể thực hiện một số xét nghiệm chuyên khoa như: Xét nghiệm trên da của trẻ hoặc làm xét nghiệm máu để xác định một cách chắc chắn thức ăn mà trẻ bị dị ứng. Tuy nhiên, tính chính xác của các xét nghiệm này chưa cao.

Chính vì thế, bạn không thể dựa đơn thuần vào kết quả xét nghiệm để quyết định chế độ ăn cho trẻ. Một số xét nghiệm có độ chính xác cao hơn nhưng độ an toàn thấp hơn như test kích thích với chính loại thức ăn nghi ngờ. Nên thực hiện xét nghiệm này khi có sự giám sát của bác sĩ chuyên khoa dị ứng.

Khi biết trẻ bị dị ứng với một loại thức ăn nào đó, nên loại bỏ nó ra khỏi thực đơn của trẻ. Không nên chế biến hoặc đựng thức ăn của trẻ trong các dụng cụ có dính các thức ăn mà trẻ dị ứng.

Tuy nhiên, dị ứng thức ăn không kéo dài suốt cả đời, chính vì vậy bạn không cần bắt trẻ kiêng khem kéo dài một loại thực phẩm nào cả. Sau một thời gian, bạn có thể cho trẻ ăn lại thức ăn đó (ngoại trừ những món gây phản ứng dị ứng cấp tính như sốc phản vệ).

Khi dị ứng thức ăn đã được khẳng định, việc điều trị cần phải được tiến hành ngay khi có thể với hai biện pháp chủ yếu sau:

  • Loại trừ những thực phẩm gây dị ứng ra khỏi chế độ ăn của trẻ.
  • Sử dụng các thuốc điều trị thích hợp cho tình trạng dị ứng.

Việc loại trừ khỏi chế độ ăn của trẻ các thức ăn gây dị ứng là biện pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, nhằm giảm bớt mức độ và ngăn ngừa sự tái xuất hiện của các phản ứng dị ứng.

Một số thức ăn có mẫn cảm chéo với các thức ăn gây dị ứng cũng cần được loại trừ khỏi bữa ăn của trẻ, như: Sữa dê với sữa bò, thịt bò (thịt bê) với thịt cừu thường mẫn cảm chéo với nhau trong khoảng 50 – 90% trường hợp, giữa các loại cá, các loại đậu cũng thường có mẫn cảm chéo với nhau.

Trong những trường hợp dị ứng nhẹ, việc giảm bớt các thức ăn gây dị ứng trong chế độ ăn cũng có thể đủ để giảm thiểu các triệu chứng dị ứng, không nhất thiết các mẹ phải loại bỏ hoàn toàn những thức ăn này, tuy nhiên tốt nhất vẫn là loại bỏ hoàn toàn những thức ăn này.

Với những trẻ em bị dị ứng với sữa, các mẹ cần lưu ý đọc kỹ thành phần của các loại sữa bột hoặc bột dinh dưỡng trước khi sử dụng cho con. Trường hợp trẻ bị dị ứng với sữa bò thường có thể sử dụng các loại sữa bột hoặc bột dinh dưỡng được sản xuất từ bột đậu nành một cách an toàn. Nếu trẻ dị ứng với cả sữa bò và bột đậu nành, các mẹ nên tìm các loại sữa bột với thành phần dinh dưỡng đã được thủy phân (hydrolyzed formula). Tốt nhất là nên gặp chuyên gia dinh dưỡng để có lời khuyên hữu ích về việc lựa chọn sữa cho trẻ.

Một số trường hợp dị ứng thức ăn ở trẻ em, đặc biệt là những trường hợp dị ứng xuất hiện sớm, trẻ thường giảm và mất dần tình trạng mẫn cảm với thức ăn sau một thời gian do sự dung nạp miễn dịch của cơ thể. Trong những trường hợp này, khi trẻ đã lớn có thể thử dùng lại các thức ăn đã từng gây dị ứng một cách thận trọng.

Lưu ý là những trường hợp dị ứng thức ăn xuất hiện muộn hoặc dị ứng với một số loại thức ăn như: lạc, tôm, cá, tình trạng dung nạp miễn dịch này thường không xảy ra và không nên thử dùng lại các thức ăn đã từng gây dị ứng trong những trường hợp này. Tương tự, những trẻ đã từng bị sốc phản vệ do thức ăn cũng không nên thử dùng lại các loại thức ăn đó.

Việc loại trừ một số thức ăn khỏi chế độ ăn của trẻ có thể dẫn đến sự mất cân đối của những chế độ ăn này và gây ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, do đó tốt nhất các mẹ nên tham khảo ý kiến của các nhà dinh dưỡng học để tìm được một chế độ ăn thích hợp cho con, việc bổ sung các vitamin và muối khoáng có thể là điều cần thiết .

Sử dụng các thuốc chống dị ứng trong điều trị dị ứng thức ăn ở trẻ nhằm giảm bớt triệu chứng hoặc ngăn ngừa sự xuất hiện của các triệu chứng này khi trẻ bị dị ứng với nhiều loại thức ăn hoặc khi không thể tránh được thức ăn gây dị ứng. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phải do bác sĩ chuyên khoa Nhi hay Da liễu chỉ định và có sự theo dõi chặt chẽ.

3. Phòng ngừa dị ứng ở trẻ

Dị ứng là phản ứng khi cơ thể tiếp xúc với vật lạ, kháng nguyên lạ. Đối với những trẻ mới sinh những ngày đầu, thì vật lạ, kháng nguyên lạ chính là sữa, thức ăn. Đối với những trẻ bú sữa mẹ thì không phải kháng nguyên lạ, chỉ những trẻ bú sữa bò, sữa công thức thì mới được xem là kháng nguyên lạ.

Do đó, nguyên tắc giảm dị ứng cho trẻ đầu tiên là việc dung nạp qua đường miệng: chậm tiếp xúc với dị nguyên trong vài tháng đầu đời. Giai đoạn này, hầu hết dị nguyên từ công thức dinh dưỡng sữa bò. Trẻ bú sữa công thức dinh dưỡng sẽ nhận nhiều kháng nguyên lạ gấp 106 lần so với trẻ được bú mẹ hoàn toàn.

Để phòng ngừa tiên phát dị ứng, có thể chia làm hai đối tượng là áp dụng cho tất cả trẻ và trẻ nguy cơ cao.

3.1 Đối với tất cả trẻ

  • Cần được bú mẹ hoàn toàn ít nhất là 4 tháng đầu
  • Tiếp tục bú mẹ cho đến 6 tháng
  • Tránh hoàn toàn khói thuốc lá, trước và sau khi sinh

Sữa mẹ có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa dị ứng, bé bú mẹ hoàn toàn ít nhất 4 tháng cho đến 6 tháng có thể giúp giảm tần suất viêm da dị ứng ở trẻ dưới 2 tuổi; giảm khởi phát sớm những cơn khò khè ở trẻ dưới 4 tuổi; giảm tần suất dị ứng protein sữa bò trong 2 năm đầu đời.

3.2 Đối với những trẻ nguy cơ cao, bao gồm những trẻ không được bú mẹ

  • Nên được cho uống sữa thủy phân đến khi 4 tháng tuổi. Sữa công thức thủy phân một phần được ưa chuộng hơn là sữa công thức thủy phân tích cực (hoàn toàn).
  • Bà mẹ cho con bú cũng nên hạn chế những thực phẩm có thể gây dị ứng cho trẻ nhằm làm an toàn hoá sữa mẹ.

Tuyệt đối tránh những thức ăn mà trẻ bị dị ứng, đặc biệt là trẻ dưới 3 tuổi, đây là lứa tuổi bị dị ứng thức ăn cao nhất. Sự kết hợp ăn kiêng với một chế độ bù dưỡng chất từ thực phẩm bổ sung là một giải pháp an toàn.

Mặc dù vậy, nhiều đứa trẻ khi lớn lên có khả năng dung nạp các thực phẩm vốn đã từng gây ra dị ứng khi còn nhỏ. Hiện tượng này thường xảy ra với thực phẩm như trứng, sữa, đậu nành. Có khoảng 85% trẻ em dung nạp được với trứng và sữa sau từ 3 – 5 năm, và khoảng 50% trẻ hết các phản ứng dị ứng ở độ tuổi từ 8 – 12 tuổi. Những đứa trẻ này tiếp tục sẽ hết dị ứng thức ăn khi lớn lên. Do vậy, cần cho trẻ làm quen dần với những thực phẩm này ở độ tuổi đến trường để nhanh chóng trả lại cho trẻ một chế độ ăn cân bằng và đa dạng.

Vì tình trạng dị ứng thức ăn ở trẻ có liên quan nhiều đến di truyền nên những gia đình có thành viên gần có cơ địa dị ứng hoặc mắc những bệnh dị ứng thì đứa trẻ sẽ có nguy cơ cao mắc một hoặc nhiều các bệnh liên quan đến dị ứng như viêm mũi dị ứng, hen dị ứng, eczema và dị ứng thức ăn. Trong tình huống này, khi mang thai, bà mẹ không nên ăn nhiều lạc và đậu nành nhằm hạn chế khả năng dị ứng cho trẻ trong độ tuổi bú mẹ.

Nguồn: Bệnh Viện Vinmec